BÀI 3-Thánh Giustinô, Triết gia và Tử đạo

GIÁO LÝ VỀ CÁC GIÁO PHỤ 

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI

BÀI 3: Thánh Giustinô, Triết gia và Tử đạo (c. 100-165)

 

Trong các bài giáo lý này, chúng ta đang suy tư về những nhân vật vĩ đại của Giáo hội sơ khai. Hôm nay, chúng ta nói về Thánh Giustinô, Triết gia và Tử đạo. Ngài là người quan trọng nhất trong số các Giáo phụ Hộ giáo thế kỷ II.

Từ “nhà hộ giáo” chỉ những tác giả Kitô giáo cổ thời, những người bắt đầu bảo vệ tôn giáo mới khỏi những lời buộc tội nặng nề của cả người ngoại giáo và người Do Thái, và truyền bá giáo lý Kitô giáo phù hợp với văn hóa của thời đại các ngài.

Do đó, các nhà hộ giáo có hai mối quan tâm: thứ nhất là “biện hộ”, bảo vệ Kitô giáo mới sinh và mối quan tâm thứ hai là “truyền giáo”, giải thích nội dung của đức tin trong một ngôn ngữ và bằng một phương thế dễ hiểu đối với những người đương thời.

Giustinô sinh vào khoảng năm 100 gần Shechem cổ thời của Samaria, trong vùng Đất Thánh; ngài đã dành một thời gian dài để tìm kiếm sự thật, trải qua các trường phái khác nhau của truyền thống triết học Hy Lạp.

Cuối cùng, như chính ngài kể lại trong những chương đầu tiên của tác phẩm Đối thoại với Tryphon, một nhân vật bí ẩn, một cụ già mà Giustinô đã gặp trên bờ biển, ban đầu ông dẫn ngài vào một cuộc khủng hoảng bằng cách cho ngài thấy rằng con người không thể thỏa mãn khát vọng của mình với thần thánh chỉ bằng sức lực của riêng mình. Sau đó, cụ già chỉ ra cho Giustinô thấy các tiên tri cổ đại là những người mà qua họ con người có thể tìm đường đến với Thiên Chúa và “triết học đích thực”.

Khi rời đi, cụ già thúc giục Giustinô cầu nguyện rằng cánh cổng ánh sáng sẽ được mở ra cho ngài. Câu chuyện báo trước giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của Giustinô: vào cuối một cuộc hành trình triết học dài, một cuộc tìm kiếm sự thật, ngài đã đến với đức tin Kitô giáo. Giustinô thành lập một trường học ở Rôma, nơi học viên không phải trả phí, ngài đã khai tâm cho học viên vào tôn giáo mới, được coi là triết lý thực sự. Thật vậy, trong đó ngài đã tìm thấy sự thật cùng với một nghệ thuật sống đạo đức.

Vì lý do này, ngài đã bị tố cáo và bị chặt đầu vào khoảng năm 165 dưới triều đại của Marcus Aurelius, nhà triết học-hoàng đế mà Giustinô đã đề cập đến một trong tác phẩm Hộ giáo của mình.

Hai cuốn Hộ giáoĐối thoại với Tryphon là những tác phẩm duy nhất còn sót lại của Giustinô. Trong đó, Giustinô có ý định trước hết là minh họa kế hoạch sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa, được hoàn tất trong Chúa Giêsu Kitô, trong Logos, nghĩa là Ngôi Lời vĩnh cửu, Lý trí vĩnh cửu, Lý trí sáng tạo.

Mỗi người như một hữu thể có lý trí chia sẻ trong Logos, mang trong mình một “hạt giống”, và có thể cảm nhận được những tia sáng của sự thật. Do đó, cùng một Logos, Người đã mặc khải mình như một ngôn sứ cho người Do Thái qua Lề Luật, cũng đã thể hiện một phần, trong “những hạt giống sự thật” trong triết học Hy Lạp.

Bây giờ, Giustinô kết luận, Kitô giáo là sự tỏ hiện mang tính lịch sử và cá vị của Logos một cách trọn vẹn. Thế nên, “bất cứ điều gì được nói đúng giữa tất cả mọi người đều là tài sản của Kitô hữu chúng ta” (2 Hộ giáo, 13, 4).

Bằng cách này, mặc dù Giustinô tranh cãi về triết học Hy Lạp và những mâu thuẫn của nó, ngài, một cách chắc chắn, đã hướng mọi sự thật triết học tới Logos, và đã đưa ra lý do cho “tuyên bố” bất thường về sự thật và tính phổ quát của Kitô giáo. Nếu Cựu ước nghiêng về Chúa Kitô, giống như biểu tượng là một hướng dẫn cho thực tại được đại diện, thì triết học Hy Lạp cũng khao khát Chúa Kitô và Tin Mừng, giống như một phần cố gắng kết hợp với toàn bộ.

Và ngài nói rằng hai thực tại này, Cựu ước và triết học Hy Lạp, giống như hai con đường dẫn đến Chúa Kitô, đến Ngôi Lời. Đây là lý do tại sao triết học Hy Lạp không thể chống lại chân lý Tin Mừng, và các Kitô hữu có thể học được điều ích lời từ triết học Hy Lạp.

Do đó, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã mô tả Thánh Giustinô là “người tiên phong của sự dấn thân tích cực với tư duy triết học – mặc dù với sự biện phân thận trọng. Mặc dù ngài tiếp tục giữ triết học Hy Lạp trong sự tôn trọng cao sau khi trở lại, Giustinô tuyên bố một cách mạnh mẽ và sự rõ ràng rằng ngài đã tìm thấy trong Kitô giáo “thứ triết lý chắc chắn và hữu hiệu” (Đối thoại, 8,1)” (Fides et Ratio, số 38).

Nhìn chung, con người và tác phẩm của Giustinô đánh dấu sự lựa chọn mạnh mẽ của Giáo hội cổ thời về triết học, vì lý trí, hơn là vì tôn giáo của những người ngoại giáo. Với ngoại giáo, trên thực tế, các Kitô hữu đầu tiên đã kiên quyết từ chối mọi thỏa hiệp. Họ cho rằng đó là thờ ngẫu tượng, với cái giá phải trả là bị buộc tội vì lý do “bất đạo” và “chủ nghĩa vô thần” này.

Giustinô, đặc biệt là trong tác phẩm Hộ giáo thứ nhất, đã chỉ trích không thương tiếc tôn giáo ngoại giáo và những huyền thoại của nó, mà ngài coi là sai lầm một cách ma quỷ trên con đường của sự thật.

Mặt khác, triết học trình bày một cuộc gặp gỡ giữa ngoại giáo, Do Thái giáo và Kitô giáo, chính xác ở cấp độ chỉ trích tôn giáo ngoại giáo và những huyền thoại sai lầm của nó.

Trên thực tế, tôn giáo ngoại giáo không đi theo con đường của Ngôi Lời, mà bám vào huyền thoại, ngay cả khi triết học Hy Lạp nhận ra rằng thần thoại không có sự nhất quán với sự thật.

Do đó, sự suy tàn của tôn giáo ngoại giáo là không thể tránh khỏi: đó là hậu quả hợp lý của việc tách rời tôn giáo – bị giảm xuống thành một bộ sưu tập nhân tạo các nghi lễ, quy ước và phong tục – khỏi sự thật của sự tồn tại.

Giustinô, và cùng với ngài những nhà hộ giáo khác, đã chấp nhận lập trường rõ ràng của đức tin Kitô giáo đối với Thiên Chúa của các triết gia chống lại các vị thần giả của tôn giáo ngoại giáo.

Đó là sự lựa chọn của sự thật chống lại huyền thoại về phong tục. Vài thập kỷ sau Giustinô, Tertullianô đã định nghĩa cùng một lựa chọn của các Kitô hữu với một câu nói ngắn gọn vẫn còn được áp dụng: “Dominus noster Christus veritatem se, non consuetudinem, cognominavit – Chúa Kitô đã nói rằng Ngài là chính sự thật chứ không phải sự mô phỏng” (De Virgin. Vel. 1, 1).

Cần lưu ý về vấn đề này rằng thuật ngữ consuetudo, được Tertullianô sử dụng để chỉ tôn giáo ngoại giáo, có thể được dịch sang các ngôn ngữ hiện đại với các biểu thức: “mô phỏng văn hóa”, “mốt hiện tại”.

Trong một thời đại như thời đại của chúng ta, được đánh dấu bởi thuyết tương đối trong cuộc thảo luận về các giá trị và về tôn giáo – cũng như trong đối thoại liên tôn – đây là một bài học không nên quên.

Để đạt được mục đích này, tôi đề nghị với anh chị em một lần nữa những lời cuối cùng của cụ già bí ẩn mà Giustinô đã gặp trên bờ biển: “Hãy cầu nguyện rằng, trên tất cả mọi sự, cánh cửa ánh sáng có thể được mở ra cho bạn; vì những điều này không thể được nhận thức hoặc hiểu bởi tất cả mọi người, nhưng chỉ bởi người mà Thiên Chúa và Đấng Kitô của Ngài đã truyền đạt sự khôn ngoan” (Đối thoại, 7,3).

ĐGH Bênêđictô XVI, Tiếp Kiến Chung, Hội trường Phaolô VI, thứ Tư, 21 tháng 3 năm 2007

Lm. An-tôn Trần Văn Phú, biên dịch

Lên đầu trang